Rất nhiều trường hợp mâu thuẫn trong gia đình liên quan đến chuyện tiền nong. Bất kể trong thời kỳ hôn nhân hay đã ly hôn, xung đột thường xảy ra khi những khoản chi tiêu, vay mượn không rõ ràng gữa vợ và chồng. Nhiều người nghĩ rằng, chỉ cần là vợ chồng thì sẽ phải liên đới chịu mọi trách nhiệm liên quan tới việc trả nợ. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp pháp luật quy định vợ hoặc chồng không phải liên đới chịu trách nhiệm trả nợ trong một số trường hợp sau:
1. Mục đích vay tiền không đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
Theo quy định tại điều 30 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.
Tuy nhiên không phải gia đình nào hoặc người nào cũng có tài sản riêng, vì vậy khi không có đủ điều kiện nêu trên mà một trong hai có quyền đứng ra vay một khoản tiền từ một đối tượng nào đó thì bên kia phải liên đới chịu trách nhiệm.
2. Việc vay mượn tiền không dựa trên căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng
Trong đó, căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng được quy định tại điều 24 Luật HNGĐ như sau:
1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.
3. Không thuộc các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Theo quy định của pháp luật những nghĩa vụ sau đây là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
Nếu không thuộc các nghĩa vụ trên vợ hoặc chồng sẽ không phải liên đới chịu trách nhiệm.
Căn cứ pháp lý:
– Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Fanpage: Văn phòng Luật sư Hùng Phúc
Luathungphuc
Luathungphuc.vn
Mọi thắc mắc cần giải đáp, Quý khách vui lòng liên hệ Hotline: 0979 80 1111 để được tư vấn chi tiết!
Công ty Luật TNHH Hùng Phúc