Gần đây, Luật sư có nhận được nhiều thắc mắc của Qúy khách hàng liên quan đến việc “Thế nào là nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng? Việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng có bị pháp luật cấm không?”. Luật sư xin giải đáp như sau:
-
Căn cứ pháp lý:
– Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
– Bộ luật hình sự năm 2015
– Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
-
Thế nào là chung sống như vợ chồng?
Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã định nghĩa: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.”
Việc nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, có đủ điều kiện kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:
Các điều kiện để đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”
Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các bên có đủ điều kiện kết hôn nhưng không thực hiện việc đăng ký kết hôn. Đây là một đặc điểm cơ bản để phân biệt với trường hợp nam nữ không đủ điều kiện kết hôn nên không thể đăng ký kết hôn hay trường hợp kết hôn trái pháp luật (Các bên có đăng ký kết hôn nhưng lại vi phạm điều kiện kết hôn).
Thứ hai, trong thời gian chung sống như vợ chồng, hai người thực sự coi nhau là vợ chồng.
Đây là đặc điểm để phân biệt với trường hợp “Chung sống tạm bợ”. Để đánh giá việc “Thực sự coi nhau là vợ chồng” là một việc không hề dễ dàng vì còn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể. Ngoài việc căn cứ vào lời khai của mỗi người thì còn phải xem xét tình cảm, thái độ, cách cư xử của các chủ thể với nhau và hậu quả trong thời gian chung sống để đánh giá và quyết định.
Thứ ba, khi bắt đầu đầu chung sống, hai người muốn chung sống lâu dài và ổn định không?
Có thể coi đây là một đặc điểm để phân biệt với trường hợp “Sống thử” hay “Hôn nhân thử nghiệm” mà những năm gần đây thường xuyên được nhắc tới. Với “hôn nhân thử nghiệm” sau một thời gian chung sống, các bên thấy phù hợp thì sẽ tiến hành đăng ký kết hôn thì ngay từ khi chung sống họ đã có ý định gắn bó lâu dài với nhau và xây dựng cuộc sống gia đình.
-
Sống chung với nhau như vợ chồng có vi phạm pháp luật không?
Nam nữ sống chung như vợ chồng mà không thuộc trường hợp cấm theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì không vi phạm pháp luật. Như vậy, trường hợp hai bên nam nữ đã đủ điều kiện đăng ký kết hôn, không đang tồn tại quan hệ hôn nhân nhưng không đăng ký kết hôn mà sống chung như vợ chồng thì không vi phạm pháp luật.
Với những trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng thuộc trường hợp cấm thì đó là hành vi trái pháp luật. Khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về hành vi bị cấm trong quan hệ hôn nhân, trong đó điểm c khoản này có liệt kê hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật như sau:
“c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;”
Luật hôn nhân và gia đình quy định hai trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật như trên. Đây là hành vi vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng mà pháp luật đã quy định, làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, trái thuần phong mỹ tục và các quy chuẩn của đạo đức xã hội.
Trường hợp chung sống như vợ chồng trái với quy định của pháp luật thì bị xử lý như thế nào?
Theo quy định của pháp luật hiện hành có hai chế tài để xử lý các trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật bao gồm: xử phạt vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự. Để xác định được mức độ vi phạm đưa ra các chế tài xử lý phù hợp nhất thì cần xác định được lỗi và mức độ gây ra thiệt hại của chủ thể vi phạm.
Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, cụ thể phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
– Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
Ngoài ra, tại Nghị định 82/2020/NĐ-CP còn quy định xử phạt đối với các hành vi vi phạm về kết hôn, ly hôn, như:
– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi:
+ Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
+ Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.
– Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
+ Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
+ Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;
+ Cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly hôn.
Biện pháp xử lý hình sự áp dụng khi việc sống chung như vợ chồng trái pháp luật gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn và có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hình sự quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Theo đó, trường hợp sống chung như vợ chồng làm quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn tới ly hôn hoặc đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng vẫn cố tình vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Đối với trường hợp làm vợ, chồng và con của một hoặc hai bên tự sát hoặc có quyết định của Tòa án buộc chấm dứt việc chung sống với nhau như vợ chồng nhưng vẫn duy trì quan hệ đó thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
luathungphuc.vn
Mọi thắc mắc cần giải đáp, Quý khách vui lòng liên hệ Hotline: 0979 80 1111 để được tư vấn chi tiết!
Công ty Luật TNHH Hùng Phúc